Saturday, 21 September 2013

Hán - Việt

Từ Hán-Việt (chữ Hán: 詞漢越) là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Việt. Cùng với sự ra đời của chữ quốc ngữ, từ Hán-Việt ngày nay được ghi bằng ký tự Latinh.

Lịch sử

Với sự giao lưu trên các bình diện văn hóa, kinh tế và chiến tranh giữa các dân tộc ở Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á, chữ Trung Quốc được hình thành, phát triển và trở thành chữ viết chung được sử dụng rộng rãi trong của các dân tộc ở khu vực này. Lưu ý là cách nói và ngôn ngữ của các dân tộc có thể hoàn toàn khác nhau vì thuộc các hệ ngôn ngữ khác nhau.
Sau hàng chục thế kỷ dưới sự cai trị và đồng hóa của người Hán, người Việt vẫn giữ được tiếng nói và nhiều phong tục riêng của mình. Tuy vậy, vẫn có sự ảnh hưởng nhất định về văn hóa, thể chế chính trị của Trung Quốc đối với người Việt, kể cả trong tư tưởng triết học và ngôn ngữ.
Do không có chữ viết riêng (theo truyền thuyết thì người Việt cổ có chữ viết riêng nhưng bị người Hán hủy bỏ, cấm đoán dẫn đến mất hẳn)[cần dẫn nguồn], trước khi chữ quốc ngữ ra đời, người Việt phải dùng chữ Hán để viết nhưng họ đọc theo âm Việt (chữ Nôm cũng dựa vào chữ Hán nhưng phức tạp hơn và chưa được chuẩn hóa nên cũng không được phổ cập). Cùng với tâm lý ngưỡng mộ văn hóa Trung Hoa, xem đó là mẫu mực, văn hóa Trung Quốc cũng hòa nhập vào văn hóa Việt. Tổ chức chính quyền phong kiến các triều đại đều theo mô hình Trung Quốc. Các nghi lễ "hôn, quan, tang, tế" cũng ảnh hưởng của kiểu Trung Quốc.
Từ Hán-Việt đã góp phần làm phong phú vốn từ của tiếng Việt, nhiều khi không tìm được từ thuần Việt tương đương để thay thế. Ngay cả ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt như: "lập trình", "vi mạch", "Wiki hóa"... Lòng tự tôn dân tộc khiến nhiều người Việt có ý muốn hạn chế từ Hán-Việt mỗi khi có thể, nhưng điều này xem ra khá khó khăn.
Hiện tượng đồng âm trong từ Hán-Việt khá phổ biến (ngay cả phát âm theo kiểu Hán cũng vậy), phải đặt trong văn cảnh mới rõ, nhiều khi phải viết ra bằng chữ Hán mới phân biệt được. Thí dụ "phi" 飛 = "bay" khác với "phi" 非 = "không" hay "ngoại trừ"; "tử" 子 = "con" khác với "tử" 死 = "chết"...

Phân loại từ Hán-Việt

Đại đa số từ Hán-Việt có âm Hán-Việt tiêu chuẩn gọi là "từ Hán-Việt tiêu chuẩn" hay "từ thuần Hán-Việt", như "lịch sử" (歷史), "văn hóa" (文化))...
Từ Hán-Viêt cổ là những từ được du nhập vào Việt Nam tương đối sớm nên còn mang nhiều nét âm vận của tiếng Trung Quốc trước đời Đường, như: "mùi" (味), "buông" (放), múa (舞), "muộn" (晚), "cởi" (解), "khoe" (夸))...
Ngoài ra còn một bộ phận từ Hán-Việt du nhập vào Việt Nam tương đối sớm lại bị ảnh hưởng của tiếng bản địa, khiến cho âm đọc của chúng bị thay đổi để phù hợp với lối phát âm của người Việt. Nhóm từ này gọi là "từ Hán-Việt bị Việt hóa" như: "gần" (近), "giường" (床)...

Từ Hán-Việt với ý nghĩa khác với từ Hán trong tiếng Hán hiện đại

Có một số ít từ Hán-Việt đã mang ý nghĩa khác với nghĩa trong tiếng Hán hiện đại. Ví dụ, ở Trung Quốc, "bác sĩ" = PhD và "y sĩ" = medical doctor; ở Việt Nam, "tiến sĩ" = PhD và "bác sĩ" = medical doctor trong khi "y sĩ" = "nhân viên y tế được đào tạo ngắn hạn (3 năm), được quyền khám và điều trị bệnh" (hệ đào tạo này chỉ tồn tại trong khi Việt Nam còn chiến tranh hoặc khó khăn kinh tế, nay không còn nữa, các y sĩ đó đa số đã theo học hệ chuyên tu khoảng 3 năm nữa để lấy bằng bác sĩ); "y sĩ" khác với "y tá"("điều dưỡng viên") là những người được đào tạo các kỹ năng chăm sóc người bệnh, theo y lệnh của bác sĩ và không được phép khám bệnh, cho toa. Sự khác biệt về nghĩa của từ như thế, có thể là do sự thay đổi về cách dùng từ của người Việt (như từ "y sĩ") hoặc do sự thay đổi về cách dùng từ của người Trung Quốc (thời xưa, họ dùng từ "đại phu" khi nói về medical doctor).

Về việc dùng từ ngữ Hán - Việt

Về việc dùng từ ngữ Hán - Việt

26/11/2006 13:15 (GMT + 7)
TTCT - Ngôn ngữ là thứ luôn phát triển theo đời sống. Những hình thái tranh chấp để tồn tại sẽ được người dùng ngôn ngữ lựa lọc. Có nên và có thể có sự can thiệp của một số cơ quan, tổ chức để bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ không?

Ít năm trước đây, khi mới có vài người dùng từ “thăm quan” ở những chỗ trước đó là “tham quan”, thì một số người mê chữ Hán đã nhảy dựng lên như thể thấy một thảm họa cho công cuộc bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Thời gian trôi đi, bây giờ thì trên các phương tiện truyền thông uy tín khó tính nhất như các đài phát thanh và truyền hình trung ương, các báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Thanh Niên, Tiền Phong... người ta đã thấy “thăm quan” đường hoàng song hành với “tham quan”.
Nhân danh bảo vệ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, một số ý kiến liên tục gợi lên vấn đề dùng từ ngữ Hán - Việt trong tiếng Việt. “Thăm quan” chỉ như giọt nước tràn ly sau những đọc giả, bày trí, chuẩn đoán, ca thán, tồi bại, cớ sự, đảo ngũ... và rất xưa rồi là thống kê (vốn là độc giả, bài trí, chẩn đoán, ta thán, đồi bại, cơ sự, đào ngũ, thống kế).
Tại sao không thể đến lúc nào đó thăm quan, bày trí... cũng sẽ trở thành quen dùng như thống kê? Chuyện này không chỉ được áp dụng cho từ Hán - Việt mà cho cả từ gốc Ấn - Âu nữa: mát-xa thành mát-xoa (xoa bóp chứ làm gì có chuyện xa hay gần!), các-táp thành cặp-táp (cái cặp đựng hồ sơ, sách vở). Đây là những cách giải thích thường được gọi là từ nguyên học dân gian. Dân gian (đại đa số người sử dụng ngôn ngữ) có cách giải thích của họ, có khi khác với cách giải thích của các nhà ngôn ngữ học, vì quan tâm của người sử dụng ngôn ngữ là mục đích giao tiếp đạt được qua sự tiết kiệm sức lực tối đa (phát âm, vận dụng trí nhớ...).
Từ Hán - Việt có nhiều loại, trong đó có loại mượn trực tiếp từ tiếng Hán, trong số này không ít từ người Hán mượn lại của người Nhật mà vẫn được người Nhật gọi là từ gốc Hán. Ví dụ trong khi người Hán chưa có từ để dịch economy, thì người Nhật lấy cụm từ kinh bang tế thế của người Hán để rút tắt thành kinh tế, hoặc như lúc đầu người Hán dùng từ quần - học để dịch sociology, nhưng sau thấy người Nhật dùng xã hội học hay hơn thì bỏ luôn từ quần - học. Người Nhật dùng chữ Hán để tạo ra từ tiếng Nhật có gốc Hán.
Người Việt cũng vậy, dùng những yếu tố Hán để tạo ra từ tiếng Việt có gốc Hán, như nhạc trưởng (Trung Quốc gọi là nhạc đội chỉ huy, chỉ huy gia), sáng kiến (Trung Quốc gọi là xướng nghị, chủ động tính), truyền thần (có nghĩa là vẽ chân dung, trong khi người Trung Quốc hiểu là rất giống, sinh động), điểm chỉ (Trung Quốc: đả thủ ấn), đa phương (Trung Quốc: đa biên)... Như vậy có thể nói không phải tất cả từ Hán - Việt đều là từ mượn của tiếng Hán. Do đó, không nhất thiết phải tuân theo qui tắc cấu tạo từ của tiếng Hán.
Điều đáng lưu ý là rất ít thấy các nhà Việt ngữ học và Hán - Nôm học có uy tín phát biểu chính thức về cách dùng từ ngữ Hán - Việt (phán xét cái gì là đúng, cái gì là sai). Có điều gì đó cần phải thận trọng hơn hay còn có gì khó nói. Có lần, cố giáo sư Hoàng Phê - nhà từ điển học và chuyên gia về chính tả tiếng Việt hàng đầu của nước ta - sau khi đã tập hợp đầy đủ tư liệu, bèn tiến hành một cuộc điều tra ngẫu nhiên.
Nhân một cuộc liên hoan của một cơ quan nọ, vui câu chuyện, ông chợt hỏi mấy thanh niên ngồi quanh: “Các bà, các cụ rủ nhau đi thăm chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp thiên nhiên thì người Hà Nội các bạn gọi là gì nhỉ?”. Tất cả trả lời “vãn cảnh”. Ông hỏi lại: “Xin lỗi, tôi người Quảng Nam nghe phát âm Hà Nội không rõ, vãn cảnh thì vãn là en-nờ hay en-nờ-giê?”. Tất cả “en-nờ”.
Lúc ra về, ông nói với tôi: “Vậy là đã rõ. Theo thống kê, tuyệt đại đa số trường hợp ghi được đều là “vãn”, chỉ có một vài trường hợp “vãng”. Đặc biệt là không có nhà văn có uy tín nào lại viết “vãng” cả”. Sau đó ông trầm ngâm, nửa như muốn tìm lời kết luận: “Phải chăng đã có lúc “ngoạn” đọc là “vãn”?”. Không phải ông Hoàng Phê không biết hai chữ Hán “vãn” và “vãng”. Đối với các trường hợp diệu nghệ/điệu nghệ, đa số/đa phần... cũng vậy.
Có lẽ vì những nhà Việt ngữ học và Hán - Nôm học uyên bác có nghĩ đến cái sợ biết một mà không biết mười nên chưa muốn phát biểu gì nhiều. Quả vậy, nếu chỉ dựa vào mấy chữ thăm quan, bày trí, vãn cảnh, điệu nghệ... để phán xét thì xử lý làm sao với hàng ngàn, chục ngàn trường hợp khác: phiên hiệu (tiếng Hán: bộ đội đại hiệu), siêu cường (siêu cấp đại quốc), xuất ngoại (Hán - Việt là ra nước ngoài, Hán là ra khỏi nhà), thượng tuần (sơ tuần, 10 ngày đầu tháng), công tác phí (sai lữ phí), thông tin đại chúng (truyền bá môi giới), chí công vô tư (đại công vô tư), đầu lâu (độc lâu), nước phát triển (phát đạt quốc gia), phòng thân (Hán - Việt là đề phòng thiếu thốn, cơ nhỡ, Hán là tự vệ trước đối thủ), cấu tứ (cấu tư)..., chưa kể những từ ngữ cũng đã quá quen thuộc mà không ai nghĩ đến chuyện phê phán nữa, như đinh ninh (Hán là dặn dò), tử tế (Hán là tỉ mỉ kỹ càng).
HẢI THỤY

Saturday, 7 September 2013

Dưới sự đô hộ của Pháp

Đợt trước có một bác bảo với em rằng

"Pháp là thằng trấn yểm độc hơn bất kỳ thằng nào!"

Có bác nào tự hỏi, tại sao Pháp khi vào quy hoạch nước ta vẫn để cửa ô và 36 phố phường? Suốt 100 năm Pháp đô hộ tại sao những con đường trong Hà Nội vẫn nhỏ bé, vẫn xinh xắn mà không bề thế, không mở rộng như Sài Gòn - Gia Định?

Vì Pháp đã chủ tâm đặt Hồ Gươm như cái lá bùa lớn trấn yểm toàn Hà Nội. Hà Nội nhìn tổng thể từ trên cao, Hồ Gươm là một cái rốn to lớn, mọi hạ tầng cơ cấu đều phải đặt vào cái thế tổng thể "hài hòa" với cái hồ nơi đây. Mọi con đường, mọi ngõ ngách trong Hà Nội  cứ phải xinh xắn, cứ phải  xoay quanh Hồ Gươm.

Em hỏi bác ấy: "Đặt thì đặt, ta xây mới theo ta có làm sao đâu? Thiếu gì thành phố hồ đặt ngay giữa? " . Ngậm trà bác ấy bảo , "Thế người Hà Nội chịu phá vỡ cái thân quen, cái kiến trúc ( nhỏ nhắn xinh xắn ) quanh Hồ Gươm sao ?" .

Một trăm năm đô hộ, Pháp đã đặt cho người dân nước ta khái niệm Hồ Gươm là Hà Nội, Hà Nội là Hồ Gươm. Hà Nội phải nhỏ bé, phải xinh xinh, Hồ Gươm phải là tổng thể to lớn , phải là trung tâm của Hà Nội.

Những điều khác mà Pháp còn đặt lên Hà Nội mà nhiều người tự hỏi...

+ Tại sao vào cuối thế kỷ 19,Pháp cho dân ta dựng tượng vua Lê trong khi trớ trêu rằng Pháp chẳng ưa gì một kẻ bị đô hộ lại tự do thờ chúa ngoài Pháp như thế ? Tại sao cái tượng vua Lê kia lại quá bé nhỏ so với phong thái đĩnh đạc của vua Lê ? Tại sao là vua Lê mà không là một vị vua nào khác ? Sao lại phải ở đúng chỗ đất trên Bờ Hồ?

+ Tại sao Pháp cho dựng tượng vua Lý Thái Tổ quay về hướng mặt trời mọc để làm gì ?

+ Tại sao chưa một ông thầy nào dám khẳng định cái vị trí UBND TP  là nơi rồng cuộn hổ phục, là nơi chí âm chí dương thế kia? Trong khi đó lại là nơi đầu não. Chẳng nhẽ dám khen Sài Gòn mà chẳng dám khen Hà Nội hay sao?

+ Tại sao tượng bà đầm lại phải đặt trên Tháp Rùa, mà lại rất chi nhỏ nhắn, xinh xắn ???
....




Tại sao vào cuối thế kỷ 19,Pháp cho dân ta dựng tượng vua Lê trong khi trớ trêu rằng Pháp chẳng ưa gì một kẻ bị đô hộ lại tự do thờ chúa ngoài Pháp như thế . Tại sao cái tượng vua Lê kia lại quá bé nhỏ so với phong thái đĩnh đạc của vua Lê ? Tại sao là vua Lê mà không là một vị vua nào khác ?Sao lại phải ở đúng chỗ đất trên Bờ Hồ?
Tượng vua Lê tuy nhỏ nhưng xét về địa lý của cụ Tả Ao thì đấy là do không có cái đại thế. Thằng Pháp nhợn ấy cứ ngỡ nó chả giỏi phong thủy nhưng thật ra thì nó tinh tường địa lý phong thủy của cụ Tả Ao ( ta ), phong thủy Á Đông ( Tàu ) và cả phong thủy Âu Tây.

Thằng Pháp nó lấy cái bờ đất nhỏ, dựng tượng vua Lê để làm trung tâm ( chúa của dân ta ), để làm cái bộ mặt của Hà Nội, khi các tiểu cuộc ấy nhỏ thì vạn vật xoay vần trong đấy cũng phải tương xứng, hay thậm chí còn nhỏ hơn. Mọi thứ nếu vượt ra để to lớn, để đẹp đẽ hơn thì đều là sai quy phạm , từ Á Đông đến Tây Âu, mọi thứ trong phong thủy địa lý ấy đều phải xinh xắn nhỏ bé.

Đấy là cái dây trói buộc vô hình.

Ví dụ : mấy cái nhà dây thép thời xưa thì vừa đẹp, tấm tắc khen sang nhưng hễ cứ xây to ra, cứ muốn phá vỡ cái "kiến trúc thuộc địa" thì trông chẳng khác gì mớ hổ lốn. 



Hà Nội vẫn mãi nhỏ bé khi cứ mãi xoay quanh cái Hồ Gươm kia.

Nhớ ngày xưa Liên Xô giúp quy hoạch HN theo lối các trục xiên tâm,đến lúc hỏi tâm ở đâu thì các cụ lại chả biết đâu , thành thử lấy Cột đồng hồ làm tâm.

Nhưng ai đã chọn Hồ Gươm ?

Khi đã đọc những điều em chém, ắt hẳn có bác bảo "Thế Hồ Gươm là do nhân dân ta chọn làm trung tâm mà?".

Nếu bác nào có tìm hiểu 1 tí thì biết ngay rằng cũng do chính thằng Pháp chọn cả! Pháp lấp sông Tô Lịch, phá Hoàng Thành, dẹp Hồ Tây , v...v...

Em xin thưa rằng, Thăng Long - Hà Nội - Hồ Gươm ngày xưa ( trước thời Pháp ) thì chẳng khác cái tỉnh lỵ. Vào thời cực thịnh nước ta Lý - Trần - Lê thì đền đài, lăng tẩm, cung điện xây cực kỳ nguy nga hùng vĩ xứng đáng với cái tên gọi Thăng Long , nhưng trung tâm là Hoành Thành kết nối Hồ Tây cơ ! Đấy là lý do vì sao Cao Biền yểm sông Tô Lịch , bọn Tàu sau này chọn yểm Hồ Tây trước sau mới đến Hồ Gươm !

Thật sự cái Hồ Gươm ngày xưa chỉ đáng để các vua diễn tập mải võ sơn đông. Chỉ sau TK19 thì nước ta mới đồn thổi những điển tích về cái Hồ Gươm này.


Pháp cai trị Hà Nội,biến nó thành một cái thị trấn thuộc địa nhỏ xinh, vừa đủ chỉ để gọi là "Paris của Đông Dương" ( mà người đời thường hay nhắc lại với 1 sự tự hào ) , dùng để giải trí, để thỏa mãn cái thú vui nghệ - chơi .Họ rất tinh tường khi khắp HN không có một thiết kế nào thể hiện tầm vóc của một trung tâm quyền lực.Nhà cửa nhỏ xinh vừa vặn,đường xá ngắn ngủn bàn cờ.Không có bất kỳ công trình nào Pháp xây với tầm nhìn cho HN thành một đại đô thị cả.Và quan trọng nhất như em đã nói, nó đã mượn Hồ Gươm là nơi trung tâm ( trên cái nền đồn thổi điển tích của dân ta từ hồi "trả gươm" ) .Không phải Hoàng Thành,không phải sông Hồng, mà lại là Hồ Gươm.

Thế mới thấy, "Pháp khai sáng văn minh cho An Nam", thật chỉ là vừa khai vừa đẽo...và trong dạ cười thầm.